Cây Mía
Nhóm cây : | Cây ngày Tết |
---|---|
Có thể bạn sẽ thích : | |
Xem: Hỏi đáp, đố vui, truyện cười - ngụ ngôn |
Mía là tên gọi chung của một số loài trong chi Mía (Saccharum), bên cạnh các loài lau, lách. Chúng là các loại cỏ sống lâu năm, thuộc tông Andropogoneae của họ Hòa thảo (Poaceae), bản địa khu vực nhiệt đới và ôn đới ấm của Cựu thế giới. Chúng có thân to mập, chia đốt, chứa nhiều đường, cao từ 2-6 m. Tất cả các dạng mía đường được trồng ngày nay đều là các dạng lai ghép nội chi phức tạp. Chúng được trồng để thu hoạch nhằm sản xuất đường.
Mỗi khi tết đến, xuân về, bên cạnh mâm ngũ quả tượng trưng cho âm dương - ngũ hành, các gia đình người Việt thường tìm và chọn mua lấy hai cây mía thật to, thật thẳng để dựng hai bên bàn thờ tổ tiên. Cây mía được chọn để thờ phải được giữ nguyên tán lá, gốc rễ, róng (đốt, có nơi còn gọi là lóng) phải đều và nhất là không được sâu. Đến ngày khai hạ hoặc có nhà đến Rằm tháng Giêng mới ăn.
Đã có nhiều cách giải thích về tục lạ này như đó là việc người ta giữ sự ngọt ngào từ năm cũ sang năm mới để kì vọng mọi việc trong năm êm ngọt; có người giải thích từng đốt mía như nấc thang để hồn leo lên giời đến cõi siêu sinh; cũng có nơi giải thích đó hai cây gậy để ông bà chống gậy tìm về với con cháu… Cách giải thích nào cũng thể hiện cái tâm hướng nguồn và hướng tới sự tốt đẹp.
Xem về ý nghĩa của cây mía trong ngày Tết ở phần dưới của bài viết. Kích chuột vào đây để xem ngay.
Các loài mía
Một số loài mía được liệt kê dưới đây.
- Saccharum barberi: Mía
- Saccharum bengalense: Mía Bengal
- Saccharum edule : Mía
- Saccharum officinarum: Mía (loài này có được trồng tại Việt Nam)
- Saccharum sinense: Mía lau
Một khóm mía
Tính chất
Trên cây mía, thông thường phần ngọn sẽ nhạt hơn phần gốc (trong chiết nước mía). Đó là đặc điểm chung của thực vật: chất dinh dưỡng (ở đây là hàm lượng đường) được tập trung nhiều ở phần gốc (vừa để nuôi dưỡng cây vừa để dự trữ). Đồng thời, do sự bốc hơi nước của lá mía, nên phần ngọn cây lúc nào cũng phải được cung cấp nước đầy đủ để cung cấp cho lá, gây ra hàm lượng nước trong tỉ lệ đường/nước phần ngọn sẽ nhiều hơn phần gốc, làm cho ngọn cây mía nhạt hơn.
Đặc điểm sinh trưởng
Nhiệt độ
Mía là loại cây nhiệt đới nên đòi hỏi điều kiện độ ẩm rất cao. Nhiệt độ bình quân thích hợp cho sự sinh trưởng của cây mía là 15-26 độ C. Giống mía nhiệt đới sinh trưởng chậm khi nhiệt độ dưới 21 độ C và ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ 13 độ C và dưới 5 độ C thì cây sẽ chết. Những giống mía á nhiệt đới tuy chịu rét tốt hơn nhưng nhiệt độ thích hợp cũng giống như mía nhiệt đới.
Thời kì nảy mầm mía cần nhiệt độ trên 15 độ C tốt nhất là từ 26-33 độ C. Mía nảy mầm kém ở nhiệt độ dưới 15 độ C và trên 40 độ C. Từ 28-35 độ C là nhiệt độ thích hợp cho mía vươn cao. Sự dao động biên độ nhiệt giữa ngày và đêm liên quan tới tỉ lệ đường trong mía. Giới hạn nhiệt độ thích hợp cho thời kì mía chín từ 15-20 độ C. Vì vậy tỉ lệ đường trong mía thường đạt ở mức cao nhất cho các vùng có khí hậu lục địa và vùng cao.
Ánh sáng
Mía là cây nhạy cảm với ánh sáng và đòi hỏi cao về ánh sáng. Thiếu ánh sáng, mía phát triển không tốt, hàm lượng đường thấp. Mía cần thời gian tối thiểu là 1200 giờ tốt nhất là trên 2000 giờ. Quang hợp của cây mía tỉ lệ thuận với cường độ và độ dài chiếu sáng. Thiếu ánh sáng cây hút phân kém do đó phân đạm, lân, kali chỉ hiệu quả khi ánh sáng đầy đủ. Vì vậy ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới mía vươn cao mạnh nhất khi bắt đầu vào mùa hè có độ dài ngày tăng lên. Chính vì vậy, nó là nhân tố quan trọng quyết định năng suất và sản lượng mía.
Độ ẩm
Mía là cây cần nhiều nước nhưng lại sợ úng nước. Mía có thể phát triển tốt ở những vùng có lượng mưa từ 1500mm/năm. Giai đoạn sinh trưởng mía yêu cầu lượng mưa từ 100-170mm/tháng. Khi chín cần khô ráo, mía thu hoạch sau một thời gian khô ráo khoảng 2 tháng sẽ cho tỉ lệ đường cao. Bởi vậy các nước nằm trong vùng khô hạn nhưng vẫn trồng mía tốt còn những nơi mưa nhiều và phân bố đều trong năm thì việc trồng mía không hiệu quả.
Gió bão làm cây đổ dẫn đến làm giảm năng suất, giảm phẩm chất của cây. Chính vì vậy gió cũng là dấu hiệu quan trọng trong công tác dự báo lên kế hoạch và chế biến làm sao tốn ít chi phí mà giá trị sản xuất cũng như phẩm chất của mía nguyên liệu vẫn cao.
Độ cao
Độ cao có liên quan đến cường độ chiếu sáng cũng như mức chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm, do đó ảnh hưởng đến khả năng tích tụ đường trong mía, điều đó ảnh hưởng đến hoạt động của các khâu trong qui trình chế biến. Giới hạn về độ cao cho cây mía sinh trưởng và phát triển ở vùng xích đạo là 1600m, ở vùng nhiệt đới là 700-800 m...
Đất trồng
Mía là loại cây công nghiệp khoẻ, dễ tính, không kén đất, vậy có thể trồng mía trên nhiều loại đất khác nhau, từ 70% sét đến 70% cát. Đất thích hợp nhất cho mía là những loại đất xốp, tầng canh tác sâu, có độ phì cao, giữ ẩm tốt và dễ thoát nước. Có thể trồng mía có kết quả trên cả những nơi đất sét rất nặng cũng như trên đất than bùn, đất hoàn toàn cát, đất chua mặn, đất đồi, khô hạn ít màu mỡ. Yêu cầu tối thiểu với đất trồng là có độ sâu, độ thoáng nhất định, độ PH không vượt quá giới hạn từ 4-9, độ PH thích hợp là 5,5-7,5. Độ dốc địa hình không vượt quá 15 độ C, đất không ngập úng thường xuyên. Những vùng đất đai bằng phẳng cơ giới vận tải tương đối thuận lợi đều có thể bố trí trồng mía. Ngoài ra người ta có thể canh tác mía ở cả những vùng gò đồi có độ dốc không lớn lắm ở vùng trung du miền núi. Tuy nhiên ở những vùng địa bàn này cần bố trí các rãnh mía theo các đường đồng mức để tránh sói mòn đất. Ngành trồng mía chỉ có thể cho hiệu quả kinh tế cao khi hình thành những vùng chuyên canh có qui mô lớn.
Một khóm mía
Giá trị kinh tế
Mía là cây công nghiệp lấy đường quan trọng của ngành công nghiệp đường. Đường là một loại thực phẩm cần có trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của nhiều quốc gia trên thế giới, cũng như là loại nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành sản xuất công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như bánh kẹo...
Về mặt kinh tế chúng ta nhận thấy trong thân mía chứa khoảng 80-90% nước dịch, trong dịch đó chứa khoảng 16-18% đường. Vào thời kì mía chín già người ta thu hoạch mía rồi đem ép lấy nước. Từ nước dịch mía được chế lọc và cô đặc thành đường. Có hai phương pháp chế biến bằng thủ công thì có các dạng đường đen, mật, đường hoa mai. Nếu chế biến qua các nhà máy sau khi lọc và bằng phương pháp ly tâm, sẽ được các loại đường kết tinh, tinh khiết.
Ngoài sản phẩm chính là đường những phụ phẩm chính của cây mía bao gồm:
- Bã mía chiếm 25-30% trọng lượng mía đem ép. Trong bã mía chứa trung bình 49% là nước, 48% là xơ (trong đó chứa 45-55% cellulose) 2,5% là chất hoà tan (đường). Bã mía có thể dùng làm nguyên liệu đốt lò, hoặc làm bột giấy, ép thành ván dùng trong kiến trúc, cao hơn là làm ra Furfural là nguyên liệu cho ngành sợi tổng hợp. Trong tương lai khi mà rừng ngày càng giảm nguồn nguyên liệu làm bột giấy, làm sợi từ cây rừng giảm đi thì mía là nguyên liệu quan trọng để thay thế.
- Mật gỉ chiếm 3-5% trọng lượng đem ép. Thành phần mật gỉ trung bình chứa 20% nước, đường saccaro 35%, đường khử 20%, tro 15%, protein 5%, sáp 1%, bột 4% trọng lượng riêng. Từ mật gỉ cho lên men chưng cất rượu rum, sản xuất men các loại. Một tấn mật gỉ cho một tấn men khô hoặc các loại axit axetic, hoặc có thể sản xuất được 300 lít tinh dầu và 3800 l rượu. Từ một tấn mía tốt người ta có thể sản xuất ra 35-50 lít cồn 96 độ, một ha với kỹ thuật sản xuất hiện đại của thế kỷ 21 có thể sản xuất 7000-8000 lít cồn để làm nhiên liệu. Vì vậy khi mà nguồn nhiên liệu lỏng ngày càng cạn kiệt thì người ta đã nghĩ đến việc thay thế năng lượng của thế kỷ 21 là lấy từ mía.
- Bùn lọc chiếm 1,5-3% trọng lượng mía đem ép. Đây là sản phẩm cặn bã còn lại sau khi chế biến đường. Trong bùn lọc chứa 0,5% N, 3% Protein thô và một lượng lớn chất hữu cơ. Từ bùn lọc có thể rút ra sáp mía để sản xuất nhựa xêrin làm sơn, xi đánh giầy, vv...Sau khi lấy sáp bùn lọc dùng làm phân bón rất tốt.
Theo ước tính giá trị các sản phẩm phụ phẩm còn cao hơn 2-3 lần sản phẩm chính là đường.
Mía còn là loại cây có tác dụng bảo vệ đất rất tốt. Mía thường trồng từ tháng 10 đến tháng 2 hàng năm là lúc lượng mưa rất thấp. Đến mùa mưa, mía được 4-5 tháng tuổi, bộ lá đã giao nhau thành thảm lá xanh dày, diện tích lá gấp 4-5 lần diện tích đất làm cho mưa không thể rơi trực tiếp xuống mặt đất có tác dụng tránh xói mòn đất cho các vùng đồi trung du. Hơn nữa mía là cây rễ chum và phát triển mạnh trong tầng đất từ 0-60cm. Một ha mía tốt có thể có 13-15 tấn rễ, sau khi thu hoạch bộ rễ để lại trong đất cùng với bộ lá là chất hữu cơ quý làm tăng độ phì của đất.
Khóm cây mía
Trồng và sử dụng
Những ghi chép lịch sử về mía đã bắt nguồn từ năm 510 TCN. Thời đó, dưới triều vị vua vĩ đại Darius I, Đế quốc Ba Tư rất hùng mạnh. Khi chinh phạt Ấn Độ, ông tìm thấy mía và viết: "Loại cây sồi đã mang lại mật ong mà không có ong". Ngày nay, khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trồng mía đường và sản xuất khoảng 1.324,6 triệu tấn (khoảng 6 lần nhiều hơn sản lượng củ cải đường). Vào năm 2005, nhà sản xuất mía đường lớn nhất thế giới là Brasil, tiếp theo là Ấn Độ. Người ta dùng mía đường vào sản xuất đường, xirô Falernum, mật mía, rum, đồ uống không cồn, cachaça (một loại rượu của Brasil) và cồn để làm nhiên liệu. Bã mía còn lại sau khi ép đường có thể đốt để sản xuất nhiệt - dùng trong nhà máy- lẫn điện năng - thông thường được bán cho các nhà cung cấp điện/hệ thống lưới điện. Do chứa nhiều xenluloza nên nó cũng được dùng trong sản xuất giấy và bìa các tông, được tiếp thị như là "thân thiện môi trường" do được làm từ phụ phẩm của sản xuất đường.
Cây mía
Các thớ sợi từ mía Bengal (Saccharum munja hay Saccharum bengalense) cũng được dùng để làm thảm, bức ngăn hay giỏ, rổ v.v tại Tây Bengal. Thớ sợi này cũng được dùng trong Upanayanam - một nghi lễ tôn giáo của Ấn giáo (Hindu) tại Ấn Độ và vì thế nó cũng có ý nghĩa về mặt tôn giáo.
Cây mía
Chữa bệnh
Có thể dùng nước mía để chữa bệnh viêm dạ dày mãn tính theo công thức sau: Nước mía - rượu nho mỗi thứ một ly rồi trộn vào nhau, uống mỗi ngày 2 lần (sáng, tối) (bài thuốc dân gian). Ngoài ra, với một số bệnh khác có thể chữa bằng mía.
Ý nghĩa của cây mía trong ngày Tết
Ý nghĩa đầu tiên của việc thờ cúng cây mía trong ngày tết của người Việt là "sự nối kết". Cây mía giống như một biểu tượng của sự giao hòa trời - đất, kết nối hai thế giới âm - dương. Tán lá tượng trưng cho mây, trời. Gốc rễ tượng trưng cho đất, cho gốc cội gia đình. Những róng mía lúc này như những nấc thang nối liền đất - trời, âm - dương dẫn đón linh hồn tổ tiên từ trên trời trở hạ giới về sum vầy cùng cháu con trong những ngày đầu tiên của năm mới.
Theo quan niệm của người Việt, cây mía còn là "vật bất li thân" trong hành trình tổ tiên trở về trời sau ba ngày tết sum vầy cùng cháu con dưới hạ giới. Trong lễ "tiễn ông vải" (thường được tổ chức vào ngày mùng 3 tết), con cháu sẽ chọn những sản vật là thành quả lao động trong năm cũ dâng lên gia tiên. Lúc này mía trở thành "đòn gánh" chuyên chở những sản vật ấy. Dọc đường đi không tránh khỏi những tà ma, cô hồn tranh cướp những tài sản con cháu đã dâng tặng tổ tiên, cây mía bây giờ là thứ vũ khí gần gũi nhất đánh đuổi tất cả. Có khi trên hành trình đôi chỗ gặp những khúc sông vắng không cầu, không đò... mía lại trở thành những cây cầu để lộ trình của tổ tiên được thuận lợi.
Một điều trong bất kỳ tín ngưỡng thờ cúng nào, người Việt đều hướng đến đó chính là sự nguyện cầu. Khi chọn cây mía làm sản vật thờ cúng, cha ông ta đã gửi vào đó những ước mong gắn liền với đặc trưng vốn có của nó. Mía vốn là sản phẩm nông nghiệp mang lại vị ngọt cho cuộc sống. Bởi vậy, điều đầu tiên mà người Việt hướng đến đó chính là nguyện cầu một năm mới với sự ngọt ngào, may mắn. Mía còn thể hiện sự vươn lên mạnh mẽ, sự rắn chắc. Thế nên nó còn gửi gắm ước nguyện được vươn cao đến sự thành công và mong cầu sức khỏe...
Những gì mà người Việt gửi vào tín ngưỡng thờ cúng cây mía ngày tết mà chúng tôi đề cập ở trên chắc hẵn là chưa đủ đầy. Lí do là ở chỗ do quan niệm của từng người, từng vùng miền đôi chỗ có khác nhau. Tuy nhiên chừng ấy cũng đủ thấy sự phong phú và những nét đẹp tâm linh trong văn hóa tết cổ truyền dân tộc Việt Nam.
Đối với người Việt Nam, mỗi sản vật được chọn để dâng lên bàn thờ gia tiên đều hàm chứa trong đó những ý nghĩa. Việc cây mía được sử dụng trong nghi lễ thờ cúng trong ngày tết cổ truyền là một trường hợp như vậy. Không chỉ là sản vật dâng cúng gia tiên, cây mía trong thờ cúng ngày tết đã trở thành một biểu tượng văn hóa tâm linh của người Việt. Bởi vậy khi những giá trị hiện đại đang dần len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống thì nó cần phải được lưu giữ để hương vị ngày tết cổ truyền dân tộc càng trở nên đậm đà...
Cây mía theo truyền thuyết trong Phật Giáo
Những người theo và đọc Phật giáo họ có những kiến giải khác cần tham khảo. Nói chung, các nghi lễ người Kinh là một hiện tượng phức tạp, tích hợp nhiều tín ngưỡng. Những tín ngưỡng thời Việt cổ (Trước Công nguyên) không từng được người Việt lúc đó ghi chép nên ta khó gặp những cái cụ thể để so sánh. Hình ảnh cây mía cũng không thật rõ ràng, hình ảnh bông lau cũng chỉ là ước đoán. Công cụ ép mật làm đường chưa khảo cổ được. Đối với người Kinh, trong sự tích hợp, ta dễ nhận ra nhất là tính chất đậm đà của Phật giáo trong hành vi cúng tế này. Đốt ngũ phần hương, bày mâm ngũ quả, tụng a di đà… toàn là của Phật giáo, không những ảnh hưởng ở người Kinh mà còn ảnh hưởng cả dân Trung Hoa từ thời Bắc thuộc, nghĩa là lâu lắm rồi.
Phật giáo Ấn Độ, theo truyền thống trước đó, coi tổ tiên Thích ca là thuộc họ Cây Mía, tiếng Phạm là Gautama, phiên âm và chữ sang tiếng Hán là Cù Đàm hoặc còn đọc là Cồ Đàm. Về nguồn gốc của dòng họ Mía của Phật, có nhiều thuyết được ghi sớm ở các kinh sách khác nhau, đại đồng tiểu dị. Theo sách "Thập nhị du" thì ở kiếp xa xưa trong quá khứ, có một vị Bồ tát làm vua, cha mẹ mất sớm, bèn nhường ngôi cho em rồi theo học đạo với một người Bà la môn, ở trong một vườn mía, người đời gọi thầy của Bồ tát là "Đại Cù đàm", gọi Bồ tát là "Tiểu Cù đàm". Thời ấy có 500 tên cướp lấy của nhà quan, trên đường tẩu thoát, chạy qua vườn mía, đánh rơi những đồ lấy được trong vườn, người đuổi bắt theo dấu tìm đến nơi, thấy thế bèn cho Bồ tát là ăn cướp, rồi dùng tên bắn Bồ tát, máu chảy lênh láng mặt đất. Đại Cù đàm dùng thiên nhãn thấy suốt, thương xót khóc lóc, vạt lấy máu còn đọng trên mặt đất, trộn với bùn đựng vào hai chiếc bát nhỏ, đặt ở hai bên trong vườn mà chú nguyện rằng: Nếu Cù đàm có lòng thành thì thiên thần sẽ biến máu thành người. Mười tháng sau, chiếc bát bên trái hóa thành con trai, chiếc bên phải hóa thành con gái và từ đó lấy họ là Cù đàm.
Sách "Đại nhật kinh sớ" quyển thứ 16 chép, người tiên Cù đàm (Cù đàm tiên), hành dâm giữa hư không, có giọt nước dơ bẩn rơi xuống mặt đất, mọc thành hai cây mía, sau đó nhờ ánh quang hợp của mặt trời mà sinh ra hai người con, một người trong đó làm vua họ Thích. Cho nên, tương truyền người tiên Cù đàm là tổ của Thích Ca, và dòng họ Thích cũng nhân thế mà gọi là giống Cam giá tức giống Cây Mía.
Một truyền thuyết khác về cây mía cũng được ghi trong Phật tạng là về Cam giá vương tức Vua cây mía. Kinh “Phật bản hạnh tập” quyển 5 chép, trước vua Cam giá, có vua tên là Đại mao thảo vương, bỏ ngôi vua đi xuất gia, được năm thần thông, gọi là Vương tiên. Vương tiên già yếu không đi được, các đệ tử ra ngoài xin ăn, sợ thầy ở nhà bị hùm sói bắt, bèn để thầy vào chiếc lồng bằng cỏ rồi treo trên cây. Bấy giờ có người đi săn, nhận lầm Vương tiên là con chim trắng, mới giương cung bắn chết, chỗ máu của Vương tiên rỏ xuống, sau mọc lên hai cây mía, mặt trời nóng quá, hai cây mía nứt ra và sinh một bé trai, một bé gái. Đại thần hay tin, rước về trong cung nuôi nấng. Bé trai vì ánh nắng làm nứt cây mía mà sinh, nên đặt tên là Thiện giá sinh; lại do mặt trời nung nên gọi là Nhật chủng; còn bé gái thì đặt tên là Thiện hiền. Sau lập Thiện sinh làm vua và Thiện hiền được lập làm hoàng hậu. Thiện hiền sinh được một đứa con. Sau vua lấy thêm hai người vợ sinh được 4 đứa con. Thiền hiền muốn lập con mình làm vua, bèn khuyên vua đuổi 4 đứa con kia ra khỏi nước. Bốn người con ấy dựng nước phía sau núi Tuyết lập nên họ Thích ca.
Ở Việt Nam, khi vãn cảnh chùa, tức là đến với chốn Phật, phải trèo dốc cao, người ta thường bán mía làm gậy với ý nghĩa hồi hướng về cõi Phật tổ. Vậy, theo truyền thống, thờ tự là một nghi lễ chứa đựng cảm hứng ngược nguồn hướng cội mạnh mẽ, cây mía ở đây sẽ biểu tượng cho cội nguồn dòng họ của Phật tổ Như lai, thờ mía cũng là thờ cội nguồn Phật giáo.
Trong đời sống thực sinh, nhiều gốc tích của hành vi sẽ dần dần bị lãng quên, chỉ có tập tục là lưu giữ lâu bền như một quán tính văn hóa. Rồi dân gian, đến lượt nó lại sáng tạo ra nhiều truyền thuyết, giai thoại để giải thích lại, tạo ra tâm thức cộng đồng phong phú, thú vị. Điều này tồn tại như một phong cách sáng tạo của nghệ thuật ngôn từ dân gian. Tuy nhiên, cảm hứng hướng đến nguồn cội thì vẫn đậm đà đặc biệt khi Tết đến, người ta ngẫm nghĩ về quá khứ, thực hành trong hiện tại và kì vọng về tương lai.
Cây mía vốn đem lại sự ngọt lành trong đời sống, nay được thờ tự, lại thêm phần thiêng liêng, ý nghĩa.
Đã có nhiều cách giải thích về tục lạ này như đó là việc người ta giữ sự ngọt ngào từ năm cũ sang năm mới để kì vọng mọi việc trong năm êm ngọt; có người giải thích từng đốt mía như nấc thang để hồn leo lên giời đến cõi siêu sinh; cũng có nơi giải thích đó hai cây gậy để ông bà chống gậy tìm về với con cháu… Cách giải thích nào cũng thể hiện cái tâm hướng nguồn và hướng tới sự tốt đẹp.
Xem về ý nghĩa của cây mía trong ngày Tết ở phần dưới của bài viết. Kích chuột vào đây để xem ngay.
Các loài mía
Một số loài mía được liệt kê dưới đây.
- Saccharum barberi: Mía
- Saccharum bengalense: Mía Bengal
- Saccharum edule : Mía
- Saccharum officinarum: Mía (loài này có được trồng tại Việt Nam)
- Saccharum sinense: Mía lau
Một khóm mía
Tính chất
Trên cây mía, thông thường phần ngọn sẽ nhạt hơn phần gốc (trong chiết nước mía). Đó là đặc điểm chung của thực vật: chất dinh dưỡng (ở đây là hàm lượng đường) được tập trung nhiều ở phần gốc (vừa để nuôi dưỡng cây vừa để dự trữ). Đồng thời, do sự bốc hơi nước của lá mía, nên phần ngọn cây lúc nào cũng phải được cung cấp nước đầy đủ để cung cấp cho lá, gây ra hàm lượng nước trong tỉ lệ đường/nước phần ngọn sẽ nhiều hơn phần gốc, làm cho ngọn cây mía nhạt hơn.
Đặc điểm sinh trưởng
Nhiệt độ
Mía là loại cây nhiệt đới nên đòi hỏi điều kiện độ ẩm rất cao. Nhiệt độ bình quân thích hợp cho sự sinh trưởng của cây mía là 15-26 độ C. Giống mía nhiệt đới sinh trưởng chậm khi nhiệt độ dưới 21 độ C và ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ 13 độ C và dưới 5 độ C thì cây sẽ chết. Những giống mía á nhiệt đới tuy chịu rét tốt hơn nhưng nhiệt độ thích hợp cũng giống như mía nhiệt đới.
Thời kì nảy mầm mía cần nhiệt độ trên 15 độ C tốt nhất là từ 26-33 độ C. Mía nảy mầm kém ở nhiệt độ dưới 15 độ C và trên 40 độ C. Từ 28-35 độ C là nhiệt độ thích hợp cho mía vươn cao. Sự dao động biên độ nhiệt giữa ngày và đêm liên quan tới tỉ lệ đường trong mía. Giới hạn nhiệt độ thích hợp cho thời kì mía chín từ 15-20 độ C. Vì vậy tỉ lệ đường trong mía thường đạt ở mức cao nhất cho các vùng có khí hậu lục địa và vùng cao.
Ánh sáng
Mía là cây nhạy cảm với ánh sáng và đòi hỏi cao về ánh sáng. Thiếu ánh sáng, mía phát triển không tốt, hàm lượng đường thấp. Mía cần thời gian tối thiểu là 1200 giờ tốt nhất là trên 2000 giờ. Quang hợp của cây mía tỉ lệ thuận với cường độ và độ dài chiếu sáng. Thiếu ánh sáng cây hút phân kém do đó phân đạm, lân, kali chỉ hiệu quả khi ánh sáng đầy đủ. Vì vậy ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới mía vươn cao mạnh nhất khi bắt đầu vào mùa hè có độ dài ngày tăng lên. Chính vì vậy, nó là nhân tố quan trọng quyết định năng suất và sản lượng mía.
Độ ẩm
Mía là cây cần nhiều nước nhưng lại sợ úng nước. Mía có thể phát triển tốt ở những vùng có lượng mưa từ 1500mm/năm. Giai đoạn sinh trưởng mía yêu cầu lượng mưa từ 100-170mm/tháng. Khi chín cần khô ráo, mía thu hoạch sau một thời gian khô ráo khoảng 2 tháng sẽ cho tỉ lệ đường cao. Bởi vậy các nước nằm trong vùng khô hạn nhưng vẫn trồng mía tốt còn những nơi mưa nhiều và phân bố đều trong năm thì việc trồng mía không hiệu quả.
Gió bão làm cây đổ dẫn đến làm giảm năng suất, giảm phẩm chất của cây. Chính vì vậy gió cũng là dấu hiệu quan trọng trong công tác dự báo lên kế hoạch và chế biến làm sao tốn ít chi phí mà giá trị sản xuất cũng như phẩm chất của mía nguyên liệu vẫn cao.
Độ cao
Độ cao có liên quan đến cường độ chiếu sáng cũng như mức chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm, do đó ảnh hưởng đến khả năng tích tụ đường trong mía, điều đó ảnh hưởng đến hoạt động của các khâu trong qui trình chế biến. Giới hạn về độ cao cho cây mía sinh trưởng và phát triển ở vùng xích đạo là 1600m, ở vùng nhiệt đới là 700-800 m...
Đất trồng
Mía là loại cây công nghiệp khoẻ, dễ tính, không kén đất, vậy có thể trồng mía trên nhiều loại đất khác nhau, từ 70% sét đến 70% cát. Đất thích hợp nhất cho mía là những loại đất xốp, tầng canh tác sâu, có độ phì cao, giữ ẩm tốt và dễ thoát nước. Có thể trồng mía có kết quả trên cả những nơi đất sét rất nặng cũng như trên đất than bùn, đất hoàn toàn cát, đất chua mặn, đất đồi, khô hạn ít màu mỡ. Yêu cầu tối thiểu với đất trồng là có độ sâu, độ thoáng nhất định, độ PH không vượt quá giới hạn từ 4-9, độ PH thích hợp là 5,5-7,5. Độ dốc địa hình không vượt quá 15 độ C, đất không ngập úng thường xuyên. Những vùng đất đai bằng phẳng cơ giới vận tải tương đối thuận lợi đều có thể bố trí trồng mía. Ngoài ra người ta có thể canh tác mía ở cả những vùng gò đồi có độ dốc không lớn lắm ở vùng trung du miền núi. Tuy nhiên ở những vùng địa bàn này cần bố trí các rãnh mía theo các đường đồng mức để tránh sói mòn đất. Ngành trồng mía chỉ có thể cho hiệu quả kinh tế cao khi hình thành những vùng chuyên canh có qui mô lớn.
Một khóm mía
Giá trị kinh tế
Mía là cây công nghiệp lấy đường quan trọng của ngành công nghiệp đường. Đường là một loại thực phẩm cần có trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của nhiều quốc gia trên thế giới, cũng như là loại nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành sản xuất công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như bánh kẹo...
Về mặt kinh tế chúng ta nhận thấy trong thân mía chứa khoảng 80-90% nước dịch, trong dịch đó chứa khoảng 16-18% đường. Vào thời kì mía chín già người ta thu hoạch mía rồi đem ép lấy nước. Từ nước dịch mía được chế lọc và cô đặc thành đường. Có hai phương pháp chế biến bằng thủ công thì có các dạng đường đen, mật, đường hoa mai. Nếu chế biến qua các nhà máy sau khi lọc và bằng phương pháp ly tâm, sẽ được các loại đường kết tinh, tinh khiết.
Ngoài sản phẩm chính là đường những phụ phẩm chính của cây mía bao gồm:
- Bã mía chiếm 25-30% trọng lượng mía đem ép. Trong bã mía chứa trung bình 49% là nước, 48% là xơ (trong đó chứa 45-55% cellulose) 2,5% là chất hoà tan (đường). Bã mía có thể dùng làm nguyên liệu đốt lò, hoặc làm bột giấy, ép thành ván dùng trong kiến trúc, cao hơn là làm ra Furfural là nguyên liệu cho ngành sợi tổng hợp. Trong tương lai khi mà rừng ngày càng giảm nguồn nguyên liệu làm bột giấy, làm sợi từ cây rừng giảm đi thì mía là nguyên liệu quan trọng để thay thế.
- Mật gỉ chiếm 3-5% trọng lượng đem ép. Thành phần mật gỉ trung bình chứa 20% nước, đường saccaro 35%, đường khử 20%, tro 15%, protein 5%, sáp 1%, bột 4% trọng lượng riêng. Từ mật gỉ cho lên men chưng cất rượu rum, sản xuất men các loại. Một tấn mật gỉ cho một tấn men khô hoặc các loại axit axetic, hoặc có thể sản xuất được 300 lít tinh dầu và 3800 l rượu. Từ một tấn mía tốt người ta có thể sản xuất ra 35-50 lít cồn 96 độ, một ha với kỹ thuật sản xuất hiện đại của thế kỷ 21 có thể sản xuất 7000-8000 lít cồn để làm nhiên liệu. Vì vậy khi mà nguồn nhiên liệu lỏng ngày càng cạn kiệt thì người ta đã nghĩ đến việc thay thế năng lượng của thế kỷ 21 là lấy từ mía.
- Bùn lọc chiếm 1,5-3% trọng lượng mía đem ép. Đây là sản phẩm cặn bã còn lại sau khi chế biến đường. Trong bùn lọc chứa 0,5% N, 3% Protein thô và một lượng lớn chất hữu cơ. Từ bùn lọc có thể rút ra sáp mía để sản xuất nhựa xêrin làm sơn, xi đánh giầy, vv...Sau khi lấy sáp bùn lọc dùng làm phân bón rất tốt.
Theo ước tính giá trị các sản phẩm phụ phẩm còn cao hơn 2-3 lần sản phẩm chính là đường.
Mía còn là loại cây có tác dụng bảo vệ đất rất tốt. Mía thường trồng từ tháng 10 đến tháng 2 hàng năm là lúc lượng mưa rất thấp. Đến mùa mưa, mía được 4-5 tháng tuổi, bộ lá đã giao nhau thành thảm lá xanh dày, diện tích lá gấp 4-5 lần diện tích đất làm cho mưa không thể rơi trực tiếp xuống mặt đất có tác dụng tránh xói mòn đất cho các vùng đồi trung du. Hơn nữa mía là cây rễ chum và phát triển mạnh trong tầng đất từ 0-60cm. Một ha mía tốt có thể có 13-15 tấn rễ, sau khi thu hoạch bộ rễ để lại trong đất cùng với bộ lá là chất hữu cơ quý làm tăng độ phì của đất.
Khóm cây mía
Trồng và sử dụng
Những ghi chép lịch sử về mía đã bắt nguồn từ năm 510 TCN. Thời đó, dưới triều vị vua vĩ đại Darius I, Đế quốc Ba Tư rất hùng mạnh. Khi chinh phạt Ấn Độ, ông tìm thấy mía và viết: "Loại cây sồi đã mang lại mật ong mà không có ong". Ngày nay, khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trồng mía đường và sản xuất khoảng 1.324,6 triệu tấn (khoảng 6 lần nhiều hơn sản lượng củ cải đường). Vào năm 2005, nhà sản xuất mía đường lớn nhất thế giới là Brasil, tiếp theo là Ấn Độ. Người ta dùng mía đường vào sản xuất đường, xirô Falernum, mật mía, rum, đồ uống không cồn, cachaça (một loại rượu của Brasil) và cồn để làm nhiên liệu. Bã mía còn lại sau khi ép đường có thể đốt để sản xuất nhiệt - dùng trong nhà máy- lẫn điện năng - thông thường được bán cho các nhà cung cấp điện/hệ thống lưới điện. Do chứa nhiều xenluloza nên nó cũng được dùng trong sản xuất giấy và bìa các tông, được tiếp thị như là "thân thiện môi trường" do được làm từ phụ phẩm của sản xuất đường.
Cây mía
Các thớ sợi từ mía Bengal (Saccharum munja hay Saccharum bengalense) cũng được dùng để làm thảm, bức ngăn hay giỏ, rổ v.v tại Tây Bengal. Thớ sợi này cũng được dùng trong Upanayanam - một nghi lễ tôn giáo của Ấn giáo (Hindu) tại Ấn Độ và vì thế nó cũng có ý nghĩa về mặt tôn giáo.
Cây mía
Chữa bệnh
Có thể dùng nước mía để chữa bệnh viêm dạ dày mãn tính theo công thức sau: Nước mía - rượu nho mỗi thứ một ly rồi trộn vào nhau, uống mỗi ngày 2 lần (sáng, tối) (bài thuốc dân gian). Ngoài ra, với một số bệnh khác có thể chữa bằng mía.
Ý nghĩa của cây mía trong ngày Tết
Ý nghĩa đầu tiên của việc thờ cúng cây mía trong ngày tết của người Việt là "sự nối kết". Cây mía giống như một biểu tượng của sự giao hòa trời - đất, kết nối hai thế giới âm - dương. Tán lá tượng trưng cho mây, trời. Gốc rễ tượng trưng cho đất, cho gốc cội gia đình. Những róng mía lúc này như những nấc thang nối liền đất - trời, âm - dương dẫn đón linh hồn tổ tiên từ trên trời trở hạ giới về sum vầy cùng cháu con trong những ngày đầu tiên của năm mới.
Theo quan niệm của người Việt, cây mía còn là "vật bất li thân" trong hành trình tổ tiên trở về trời sau ba ngày tết sum vầy cùng cháu con dưới hạ giới. Trong lễ "tiễn ông vải" (thường được tổ chức vào ngày mùng 3 tết), con cháu sẽ chọn những sản vật là thành quả lao động trong năm cũ dâng lên gia tiên. Lúc này mía trở thành "đòn gánh" chuyên chở những sản vật ấy. Dọc đường đi không tránh khỏi những tà ma, cô hồn tranh cướp những tài sản con cháu đã dâng tặng tổ tiên, cây mía bây giờ là thứ vũ khí gần gũi nhất đánh đuổi tất cả. Có khi trên hành trình đôi chỗ gặp những khúc sông vắng không cầu, không đò... mía lại trở thành những cây cầu để lộ trình của tổ tiên được thuận lợi.
Một điều trong bất kỳ tín ngưỡng thờ cúng nào, người Việt đều hướng đến đó chính là sự nguyện cầu. Khi chọn cây mía làm sản vật thờ cúng, cha ông ta đã gửi vào đó những ước mong gắn liền với đặc trưng vốn có của nó. Mía vốn là sản phẩm nông nghiệp mang lại vị ngọt cho cuộc sống. Bởi vậy, điều đầu tiên mà người Việt hướng đến đó chính là nguyện cầu một năm mới với sự ngọt ngào, may mắn. Mía còn thể hiện sự vươn lên mạnh mẽ, sự rắn chắc. Thế nên nó còn gửi gắm ước nguyện được vươn cao đến sự thành công và mong cầu sức khỏe...
Những gì mà người Việt gửi vào tín ngưỡng thờ cúng cây mía ngày tết mà chúng tôi đề cập ở trên chắc hẵn là chưa đủ đầy. Lí do là ở chỗ do quan niệm của từng người, từng vùng miền đôi chỗ có khác nhau. Tuy nhiên chừng ấy cũng đủ thấy sự phong phú và những nét đẹp tâm linh trong văn hóa tết cổ truyền dân tộc Việt Nam.
Đối với người Việt Nam, mỗi sản vật được chọn để dâng lên bàn thờ gia tiên đều hàm chứa trong đó những ý nghĩa. Việc cây mía được sử dụng trong nghi lễ thờ cúng trong ngày tết cổ truyền là một trường hợp như vậy. Không chỉ là sản vật dâng cúng gia tiên, cây mía trong thờ cúng ngày tết đã trở thành một biểu tượng văn hóa tâm linh của người Việt. Bởi vậy khi những giá trị hiện đại đang dần len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống thì nó cần phải được lưu giữ để hương vị ngày tết cổ truyền dân tộc càng trở nên đậm đà...
Cây mía theo truyền thuyết trong Phật Giáo
Những người theo và đọc Phật giáo họ có những kiến giải khác cần tham khảo. Nói chung, các nghi lễ người Kinh là một hiện tượng phức tạp, tích hợp nhiều tín ngưỡng. Những tín ngưỡng thời Việt cổ (Trước Công nguyên) không từng được người Việt lúc đó ghi chép nên ta khó gặp những cái cụ thể để so sánh. Hình ảnh cây mía cũng không thật rõ ràng, hình ảnh bông lau cũng chỉ là ước đoán. Công cụ ép mật làm đường chưa khảo cổ được. Đối với người Kinh, trong sự tích hợp, ta dễ nhận ra nhất là tính chất đậm đà của Phật giáo trong hành vi cúng tế này. Đốt ngũ phần hương, bày mâm ngũ quả, tụng a di đà… toàn là của Phật giáo, không những ảnh hưởng ở người Kinh mà còn ảnh hưởng cả dân Trung Hoa từ thời Bắc thuộc, nghĩa là lâu lắm rồi.
Phật giáo Ấn Độ, theo truyền thống trước đó, coi tổ tiên Thích ca là thuộc họ Cây Mía, tiếng Phạm là Gautama, phiên âm và chữ sang tiếng Hán là Cù Đàm hoặc còn đọc là Cồ Đàm. Về nguồn gốc của dòng họ Mía của Phật, có nhiều thuyết được ghi sớm ở các kinh sách khác nhau, đại đồng tiểu dị. Theo sách "Thập nhị du" thì ở kiếp xa xưa trong quá khứ, có một vị Bồ tát làm vua, cha mẹ mất sớm, bèn nhường ngôi cho em rồi theo học đạo với một người Bà la môn, ở trong một vườn mía, người đời gọi thầy của Bồ tát là "Đại Cù đàm", gọi Bồ tát là "Tiểu Cù đàm". Thời ấy có 500 tên cướp lấy của nhà quan, trên đường tẩu thoát, chạy qua vườn mía, đánh rơi những đồ lấy được trong vườn, người đuổi bắt theo dấu tìm đến nơi, thấy thế bèn cho Bồ tát là ăn cướp, rồi dùng tên bắn Bồ tát, máu chảy lênh láng mặt đất. Đại Cù đàm dùng thiên nhãn thấy suốt, thương xót khóc lóc, vạt lấy máu còn đọng trên mặt đất, trộn với bùn đựng vào hai chiếc bát nhỏ, đặt ở hai bên trong vườn mà chú nguyện rằng: Nếu Cù đàm có lòng thành thì thiên thần sẽ biến máu thành người. Mười tháng sau, chiếc bát bên trái hóa thành con trai, chiếc bên phải hóa thành con gái và từ đó lấy họ là Cù đàm.
Sách "Đại nhật kinh sớ" quyển thứ 16 chép, người tiên Cù đàm (Cù đàm tiên), hành dâm giữa hư không, có giọt nước dơ bẩn rơi xuống mặt đất, mọc thành hai cây mía, sau đó nhờ ánh quang hợp của mặt trời mà sinh ra hai người con, một người trong đó làm vua họ Thích. Cho nên, tương truyền người tiên Cù đàm là tổ của Thích Ca, và dòng họ Thích cũng nhân thế mà gọi là giống Cam giá tức giống Cây Mía.
Một truyền thuyết khác về cây mía cũng được ghi trong Phật tạng là về Cam giá vương tức Vua cây mía. Kinh “Phật bản hạnh tập” quyển 5 chép, trước vua Cam giá, có vua tên là Đại mao thảo vương, bỏ ngôi vua đi xuất gia, được năm thần thông, gọi là Vương tiên. Vương tiên già yếu không đi được, các đệ tử ra ngoài xin ăn, sợ thầy ở nhà bị hùm sói bắt, bèn để thầy vào chiếc lồng bằng cỏ rồi treo trên cây. Bấy giờ có người đi săn, nhận lầm Vương tiên là con chim trắng, mới giương cung bắn chết, chỗ máu của Vương tiên rỏ xuống, sau mọc lên hai cây mía, mặt trời nóng quá, hai cây mía nứt ra và sinh một bé trai, một bé gái. Đại thần hay tin, rước về trong cung nuôi nấng. Bé trai vì ánh nắng làm nứt cây mía mà sinh, nên đặt tên là Thiện giá sinh; lại do mặt trời nung nên gọi là Nhật chủng; còn bé gái thì đặt tên là Thiện hiền. Sau lập Thiện sinh làm vua và Thiện hiền được lập làm hoàng hậu. Thiện hiền sinh được một đứa con. Sau vua lấy thêm hai người vợ sinh được 4 đứa con. Thiền hiền muốn lập con mình làm vua, bèn khuyên vua đuổi 4 đứa con kia ra khỏi nước. Bốn người con ấy dựng nước phía sau núi Tuyết lập nên họ Thích ca.
Ở Việt Nam, khi vãn cảnh chùa, tức là đến với chốn Phật, phải trèo dốc cao, người ta thường bán mía làm gậy với ý nghĩa hồi hướng về cõi Phật tổ. Vậy, theo truyền thống, thờ tự là một nghi lễ chứa đựng cảm hứng ngược nguồn hướng cội mạnh mẽ, cây mía ở đây sẽ biểu tượng cho cội nguồn dòng họ của Phật tổ Như lai, thờ mía cũng là thờ cội nguồn Phật giáo.
Trong đời sống thực sinh, nhiều gốc tích của hành vi sẽ dần dần bị lãng quên, chỉ có tập tục là lưu giữ lâu bền như một quán tính văn hóa. Rồi dân gian, đến lượt nó lại sáng tạo ra nhiều truyền thuyết, giai thoại để giải thích lại, tạo ra tâm thức cộng đồng phong phú, thú vị. Điều này tồn tại như một phong cách sáng tạo của nghệ thuật ngôn từ dân gian. Tuy nhiên, cảm hứng hướng đến nguồn cội thì vẫn đậm đà đặc biệt khi Tết đến, người ta ngẫm nghĩ về quá khứ, thực hành trong hiện tại và kì vọng về tương lai.
Cây mía vốn đem lại sự ngọt lành trong đời sống, nay được thờ tự, lại thêm phần thiêng liêng, ý nghĩa.
Xem thêm
Bình luận trên facebook